Thứ 4, 15/05/2024, 14:58[GMT+7]

Dừng chân bên bờ sóng

Thứ 2, 01/11/2021 | 09:59:14
2,985 lượt xem
Thần tích làng Cổ Dũng (“kẻ Giống”, xã Đông La, huyện Đông Hưng) ghi: Vào đời Hùng Duệ Vương (Hùng Vương thứ 18), có quan huyện lệnh Đông Quan tên là Nguyễn Nghĩa lấy bà họ Nguyễn quê tại làng Giống sinh được hai con, anh là Chàng Kha, em là Ả Nữ đều là bậc kiệt hiệt ở đời. Đất nước có loạn, Chàng Kha, Ả Nữ giúp vua đánh tan giặc; khi các vị “về già”, dân lập đền thờ.

Cụm di tích đình, đền thôn Đắc Chúng Nam, xã Quốc Tuấn (Kiến Xương) - nơi có nhiều dấu tích cổ của người Việt Mường thời đại các Vua Hùng.

Ngược dòng lịch sử, tìm về nơi dừng chân “bên bờ sóng” của cư dân Việt Mường trước thềm thiên kỷ I trước Công nguyên, nhóm nghiên cứu chúng tôi đến khu vực cửa Luộc (ngã ba sông Hồng và Nông Kỳ, nay thuộc xã Tân Lễ, huyện Hưng Hà), dấu tích còn sót lại chỉ là những tên địa danh như động và xá. Hiện nay, vùng thị trấn Hưng Nhân vẫn còn 8 “xá”, nơi cư trú của người Việt cổ, có Nham Lang, Cun (Tân Hòa), Cun và Chiềng (Thái Hưng) với kẻ Viềng (Vế, Diệc) là vùng đất bằng phẳng và cao ráo nhất tỉnh, tất cả đều có cao độ dương 1,5m. Riêng khu vực dốc Bùi và tây bến Triều Dương đạt đỉnh cao 2m, nơi đây còn là quê hương nhiều gò đống như Đức Cương, Tinh Cương, Cao Cương, Tảo Cương, bởi vậy thời Tây Hán được gọi là hương Đa Cương. Đất này thời Hùng Vương thuộc bộ Dương Tuyền và bến Triều Dương luôn là địa điểm quan trọng của nhà nước Văn Lang và nước Đại Việt.

Trong chuyến điền dã, nhóm nghiên cứu chúng tôi nhận thấy, vùng lưu vực sông cổ Chiềng Hoài, kẻ Giống còn nhiều thần tích vẫn chưa được sưu tầm, khảo cứu, các xá, động đã được đọc chệch đi như Chiềng Hoài (bao gồm 2 làng Trừng Đôi và Trừng Uyên), Lang Phố, Cun (làng Thuyền Quan, xã Thái Phúc), Cun (Vị Thủy, Thái Dương, huyện Thái Thụy); Động Xá, Đào Xá, Lại Xá, Phương Xá, Đông Động, Bì Động, Động Hối và 2 trung tâm giao lưu hàng hóa là kẻ Gọ (làng Cổ Hội, xã Đông Phong, nay là xã Phong Huy Lĩnh, huyện Đông Hưng) và kẻ Gú (làng Cổ Dũng, xã Đông La) để 2.000 năm sau kẻ Gọ (cầu Cau) trở thành phủ lỵ phủ Thái Ninh và kẻ Gú thành ngoại biên huyện lỵ Đông Hưng.

Cũng theo tài liệu điền dã, sơ bộ những vùng đất cổ thấy gần như xã nào của các huyện Hưng Hà, Vũ Thư, Đông Hưng, Kiến Xương, Quỳnh Phụ... cũng có di chỉ cư trú con người thời kỳ Hùng Vương. Khảo sát bằng phương pháp khảo cổ học cho thấy từ xã Canh Tân tới làng Xuân Trúc (nay là khu Kiều Thạch - Xuân Trúc, thị trấn Hưng Nhân) rộng hàng chục mẫu Bắc Bộ, tìm đâu cũng thấy sành, gốm loại hình Đường Cồ. Tại miễu Đầu, miễu Mẽ (thị trấn Hưng Nhân), ven “Thuần Mỹ Điện” (nay là khu Mẽ, thị trấn Hưng Nhân) có cả dãy dài mộ gạch, chính trên mảnh đất này vào năm 1943 người dân đi lấy đất sét về làm đầu rau tình cờ đã đào được một số dụng cụ bằng đồng như mũi tên, mũi tuyết, lục lạc... Những hiện vật này có niên đại cùng thời Văn hóa Đông Sơn cách ngày nay 2.500 năm (các bậc cao niên nơi đây cho biết, quan huyện Hưng Nhân lúc bấy giờ đã lấy đem đi đâu không rõ). 

Chứng minh cho việc xuất hiện cư dân Việt cổ thời Hùng Vương trên đất tỉnh ta, chúng tôi đã tiến hành khảo tả các di tích về tục thờ thần như thôn Dương Trung (xã Tiến Đức) thờ Cao Mang đại vương, thôn Tân Giới, Tân Kỳ, Hà Lão (xã Tân Lễ) thờ Cao Hiển, Cao Quán, Cao Minh, Phủ Hà (Tân Lễ) thờ Thủy Tiên công chúa; các làng Châu, Ninh (nay là khu thuộc thị trấn Hưng Nhân); An Nữ, Khuông Phù (Liên Hiệp) thờ Cao Sơn đại vương. Làng Côn Cương (Thái Hưng) thờ Cao Minh và Mỹ Hoa Bản thổ. Làng Thọ Khê, Bản, Lương Xá thờ Nam Hải đại vương, tất cả tục thờ thần khảo tả đều là “Phúc thần thời Hùng Vương”. Năm 2000, tôi đã chứng kiến người dân làng Còng (xã Minh Tân) đào được 2 trống đồng cổ có niên đại trên dưới 2.500 năm. Khảo sát tầng đất chứa trống đồng nhận thấy đây là đất “nguyên thổ” nếu có điều kiện đào sâu thêm chắc sẽ lộ tầng văn hóa sớm hơn như Gò Mun (trên 3.000 năm), cũng tại đây còn rất nhiều tiêu bản của chum, vò, lọ, chĩnh, bát, đĩa (vỡ) thời Hùng Vương. 

Theo ông Bùi Duy Lan, nguyên Giám đốc Bảo tàng tỉnh, căn cứ vào thần tích, “bóng ảnh lịch sử” tuy nhòe song ta thấy 80% các vị thần thờ ở các làng quê kể trên có gốc lưu vực “sông Đà, núi Tản” thuộc Sơn Tây (nay là Hà Nội, gắn bó với cư dân lúa nước tỉnh ta, chỉ có vài làng ven sông thị trấn Hưng Nhân thờ Tam Đới Giang, Phú Hà (Tân Lễ) thờ công chúa Thủy Tiên, Vũ Dương (Hòa Tiến) thờ Giang Khẩu. Có hiện tượng thờ phụng này bởi đất “đa cương hương” sớm được khai phá, cư dân trồng lúa tụ tập về nên hầu như các xã đều ký danh tộc thị, biểu hiện buổi đầu “dừng chân” bên bờ sóng nên các thủy tổ dựng “xá thị tộc”, chưa có công xã láng giềng (làng chạ) và đến tận đời sau không thấy xuất hiện các phường thủy cơ, các vạn chài, trở thành vùng thuần nông. Theo địa đồ hiện tại mà “truy ngược” về vùng đất cách ngày nay hơn 2.000 năm ta thấy sông Hồng chảy vào địa phận Thái Bình từ đỉnh Hải Triều (xã Tân Lễ) xuôi thêm 20km thì chia ra phụ lưu Trà Lý, điểm nối giữa sông Hồng và sông Trà xưa thuộc xã Hồng Lý (huyện Vũ Thư), từ năm 1895 thuộc xã Độc Lập và xã Hồng Minh, huyện Hưng Hà. Nơi ấy ngày xưa bờ bãi mênh mang, buổi sơ khai có tên A Lỗ, theo nghĩa là “gồ cát, cồn cát”. Phía bờ Bắc là cửa Phạm Lỗ, phía Nam là cửa Vường, giữa có cù lao lớn, trên đó có rừng Cự Lâm. Hiện trên bản đồ còn vẽ dòng sông cổ đoạn từ Hồng Lý (Vũ Thư) ăn thông gần sát cửa Vường (giáp làng Thanh Hương, xã Đồng Thanh, huyện Vũ Thư), cửa sông này sóng nước ngàn tầm. Chính nơi đây quân dân thời Trần đã đánh tan đội quân tiền trạm của Vạn hộ Lưu Thế Anh, xác giặc nghẽn dòng sông và cũng tại ngã ba sông này dân chài phải kinh nể “một trăm cửa bể phải nể cửa Vường”.

Vươn tầm mắt ra xa, sóng to, sông rộng là ngư trường lớn cho dân chài, tụ họp thành các vạn chài: Vạn Ri (xã Hồng Châu, Đông Hưng), làng thủy cơ Vị Giang (làng Sông, xã Chí Hòa, Hưng Hà), phía bên Nam là phường thủy cơ Bến Vàng. Dòng sông Hồng, sông Trà ưu tiên cho đôi bờ, nên hai triền sông từ xã Độc Lập xuống Hồng Minh, xuôi Chí Hòa (Hưng Hà), Hồng Bạch (Đông Hưng) sang Hiệp Hòa, Xuân Hòa, Việt Hùng (Vũ Thư) đều đạt cốt cao dương 1,3 - 1,5m. Từ thời Lê trở về trước, ven cửa sông này bên tả ngạn vẫn thuộc về phủ Kiến Xương. Dọc đôi bờ ken dày nhiều gò đống, bờ Bắc có đồng Nấm (Đồng Lâm) xưa là rừng già, rồi càn Mã, càn Nấm và gần 100 gò đất dân quen gọi “bách nhạn quần cư” dày đặc tả ngạn sông. Phía Nam vùng An Để (Hiệp Hòa, Vũ Thư) một loạt đống cao như đống Quỳnh, đống Thư, đống Sớ, càn Ngô, gai Cao, vườn Sấm; vùng Song Lãng có “ngũ mã địa linh”, phía Đồng Đại (Đồng Thanh, Vũ Thư) có “sơn thủy quay về”, “long hổ chầu bái”..., đó đều là các di chỉ trước sau Công nguyên 300 - 400 năm. Tại đống Sớ, vườn Sấm (An Để, Hiệp Hòa), Đồng Nấm (Hồng An, Hưng Hà), trong khi làm thủy lợi đã thấy những vỉa gạch gốm Đường Cồ sớm, cách ngày nay khoảng trên 2.000 năm...

Nhiều nhà nghiên cứu văn hóa cho rằng Thái Bình có sự thiếu hụt về di tích nhưng loại hình văn hóa phi vật thể, dã sử về phong tục, đời sống tâm linh của cư dân truyền ngôn lại qua sự tích các phúc thần có nguồn gốc từ thuở vua Hùng mở nước còn đang được thờ phụng tại các làng quê lại rất phong phú. Phúc thần thời Hùng Vương được thờ nhiều như Hồng Thức, Hùng Lược, Cao Sơn, Quý Minh, Cao Các, Nam Hải... trùng khớp với dấu tích gốm Đường Cồ.

Quang Viện