Thứ 6, 03/05/2024, 06:42[GMT+7]

Dĩ dật đãi lao

Thứ 2, 26/12/2022 | 07:37:12
6,276 lượt xem
Dưới sự lãnh đạo trực tiếp của các vua Trần, Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn và Bộ Thống soái Đại Việt, cuộc kháng chiến chống quân Nguyên Mông lần thứ 3 (1288) của quân và dân nhà Trần giành thắng lợi vang dội, đập tan mưu đồ xâm lược Đại Việt của phương Bắc. Chiến thắng oanh liệt là kết quả của tập yếu, trong đó có sự vận dụng linh hoạt, sáng tạo kế sách “lấy gần chờ xa, lấy khỏe chờ mệt, lấy no chờ đói” của quân đội nhà Trần thế kỷ XIII.

Chùa Bơn, xã Hồng Bạch, huyện Đông Hưng, địa danh cổ thời nhà Trần là căn cứ quân sự được Hưng Đạo Đại vương sử dụng làm bàn đạp tấn công đồn A Lỗ , đánh tan quân Nguyên Mông.

Sử cũ chép: Khi quân Nguyên Mông tràn từ phương Bắc xuống ải Chi Lăng, vua Trần hỏi Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn: “Thế giặc năm nay sao?”, Hưng Đạo vương bình tĩnh trả lời: “Năm nay thế giặc dễ đánh”. Câu trả lời đanh thép đó khẳng định nhà Trần có sự chuẩn bị chu đáo về mọi mặt đồng thời nắm rõ thế của giặc hành quân xa, lâu ngày không thể không mệt mỏi, tinh thần chiến đấu mệt mỏi, thế của quân đội nhà Trần là chờ kẻ mệt mỏi đến để đánh, tất sẽ thắng. Theo các nguồn khảo luận và sử cũ chép: Tháng 7/1286, vua Trần lệnh cho các vương hầu, tôn thất tuyển chọn thêm binh lính, chấn chỉnh lực lượng, luyện tập quân sĩ; gấp rút chế tạo, tu sửa khí giới, chiến thuyền; giao cho các tướng trấn giữ, tiêu hao, tiêu diệt quân giặc ở một số hướng, khu vực hiểm yếu: Trần Quốc Toản và Nguyễn Khoái vùng Lạng Sơn, Trần Khánh Dư vùng biển Vân Đồn, Trần Nhật Duật vùng Bạch Hạc… Sau một thời gian chuẩn bị, tháng mười âm lịch năm đó (19/10 - 16/11/1286) một cuộc luyện tập lớn đã được tiến hành nhằm đánh giá khả năng chuẩn bị, sẵn sàng đánh giặc của quân và dân ta.

Trước đó, hai cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông (1258 và 1285) đã để lại cho quân đội nhà Trần cả một “kho” kinh nghiệm. Do có sự nghiên cứu thấu đáo hai cuộc kháng chiến chống quân Nguyên Mông trước đó, Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn đã cùng với Bộ Thống soái nhà Trần vận dụng linh hoạt, sáng tạo kế “dĩ dật đãi lao” trong “Binh pháp Tôn Tử” để chỉ huy quân và dân đập tan cuộc tiến công xâm lược Đại Việt lần thứ 3 của quân xâm lược Nguyên Mông. Sách “Lịch triều hiến chương loại chí” của Phan Huy Chú biên khảo có chép: “Trần Thái Tông, năm 1239 chọn đinh tráng làm binh, định làm 3 bậc thượng, trung, hạ. Năm 1241, chọn người có sức khỏe, biết võ nghệ sung làm quân thượng đô túc vệ… Thánh Tông, năm 1261 tuyển đinh tráng các lộ làm binh, số còn thừa cho sung làm sắc dịch ở các sảnh viện cục và các đội tuyển phong ở các phủ, lộ, huyện”. Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn đã soạn ra bộ “Binh thư yếu lược” để huấn luyện cho tướng sĩ. Học tập binh pháp là nhiệm vụ bắt buộc cho mọi tướng sĩ. Bộ “Binh thư yếu lược” này gồm 33 mục, là một bộ binh pháp rất có giá trị, nói nhiều về kinh nghiệm, những quy luật về tổ chức và thực hành các phương thức tác chiến trên các loại địa hình. Đại Việt sử ký toàn thư chép: Trần Quốc Tuấn từng nói: “Quân số cốt phải tinh nhuệ, không cần nhiều, cứ xem như Bồ Kiên có hàng trăm vạn quân cũng không làm gì được”. Sách “Cuộc kháng chiến chống xâm lược Nguyên - Mông thế kỷ XIII” của Giáo sư Hà Văn Tấn cho biết: Trong tháng 4 năm Ất Dậu (1285), Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn đã đem quân tấn công đồn Đại Mang (A Lỗ). Đồn này nằm gần chỗ sông Hồng nối với sông Luộc (nay thuộc địa phận huyện Hưng Hà). Có lẽ đây là cứ điểm đầu tiên trên phòng tuyến của quân Nguyên trên sông Hồng nối với sông Luộc ngày nay. Viên tướng Nguyên giữ đồn này là Vạn Hộ Lưu Thế Anh đã phải rút chạy… Theo các tài liệu khảo cứu, để chống lại sự xâm lăng của phương Bắc, nhà Trần quyết định xây dựng lộ Long Hưng thành hậu phương lớn của nhà Trần, ngoài việc chăm lo phát triển sản xuất, tích trữ lương thảo, nhà Trần còn đồng thời phải chủ động xây dựng về mặt quân sự, sẵn sàng huy động sức người, sức của cho các cuộc chiến đấu bảo vệ giang sơn, xã tắc. Nhà Trần đã cho lập hệ thống phòng thủ ở ven sông Hồng, sông Luộc, sông Trà Lý và cửa biển, tuyển mộ binh lính bổ sung vào đội quân túc vệ. Sách “Đại Việt sử ký toàn thư” ghi: “Bính Ngọ năm thứ 15 (1246), mùa xuân, tháng hai định các quân. Chọn người khỏe mạnh sung làm quân Tứ Thiên, Tứ Thánh, Tứ Thần…”. Các tài liệu khảo cứu cho thấy, để chống lại sức mạnh của quân Nguyên Mông thiện chiến với vũ khí sở trường của chúng là cung nỏ, giáo dài và để hạn chế điểm mạnh của kỵ binh Nguyên Mông trên mặt đất bằng phẳng, vua quan nhà Trần và Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn đã tận dụng tối đa địa hình sông ngòi chằng chịt của nước ta ngăn bước tiến của kỵ binh và để khi rút lui có thể bảo toàn được lực lượng, khi tấn công có thể khiến giặc bất ngờ. Binh pháp của Hưng Đạo vương đã chỉ rõ: “Lấy đoản binh để chế trường trận, lấy ít địch nhiều, lấy yếu thắng mạnh…”. Sử cũ ghi: “Trong tháng 4 năm Ất Dậu, Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn đã đem quân tấn công đồn Đại Mang (A Lỗ). Đồn này nằm gần chỗ sông Hồng nối với sông Luộc. Có lẽ đây là cứ điểm đầu tiên trên phòng tuyến của quân Nguyên trên sông Hồng nối với sông Luộc ngày nay. Viên tướng Nguyên giữ đồn này là Vạn Hộ Lưu Thế Anh đã phải rút chạy”. Sử liệu cũng ghi: “Cũng cùng ngày hôm đó và trong tháng 4 âm lịch, một loạt các đồn trại khác của giặc trên sông Hồng bị quân ta tấn công” ở Tây Kết, cửa Hàm Tử, Chương Dương và thành Thăng Long.

Trên địa bàn tỉnh ta, các địa danh có liên quan tới quân đội nhà Trần và Hưng Đạo vương khi đóng quân, khi hành quân, tấn công căn cứ đồn giặc ở sông Hồng, đó là các địa danh: Cầu Quân (tương truyền xưa kia nhân dân bắc cầu tre cho quan quân nhà Trần đi đường bộ vượt qua cánh đồng Long Xà (xã Hồng Châu), Bạch Đằng (Hồng Bạch nay), Chí Hòa, Hồng Minh để bất ngờ tấn công căn cứ đồn giặc. Ngoài ra còn có địa danh cống Ba Vạn (tương truyền nơi đây xưa kia là khu vực có 3 vạn quân và thủy quân nhà Trần ém thuyền từ khúc sông (xã Hồng Giang), đến khu vực sông thuộc xã Hồng Châu (nay là Hồng Bạch) và cửa Ba Vạn (xã Hồng Việt) để ra sông Trà Lý (ở khu vực xã Hồng Bạch nay và cũng có thể là khu vực Tịnh Xuyên, xã Hồng Minh, huyện Hưng Hà). Các tài liệu khảo cứu cho hay, vào thời Trần, Hưng Đạo vương đã đóng quân ở khu vực thuộc xã Hồng Giang, xã Hồng Châu, Bạch Đằng (nay là xã Hồng Bạch, huyện Đông Hưng), để tấn công giặc Nguyên tại căn cứ đồn Đại Mang (thuộc đất A Lỗ). Sông Chanh nối từ sông Tiên Hưng chảy qua đất Hồng Việt qua làng Bơn rồi đổ ra sông Trà Lý là tuyến đường thủy lợi hại của nhà Trần đánh quân Nguyên Mông. Đoạn nối sông Chanh với sông Trà Lý hiện bây giờ là cống Hậu Thượng được xây dựng từ năm 1960, nay đã nâng cấp, tương truyền đây là nơi tập kết quân nhà Trần trước khi hội quân ra sông Trà Lý rồi tiến ra sông Hồng vì thế, sau này khi Hưng Đạo vương mất dân làng các xã kể trên đã lập đền thờ.

Không chỉ chú trọng xây dựng, huấn luyện đội quân cấm vệ tinh nhuệ, nhà Trần còn tích cực xây dựng hệ thống phòng thủ ven biển mà các cửa biển lớn như Đại Toàn (tức cửa biển Diêm Hộ, Diêm Điền, Thái Thụy nay); cửa biển Giao Hải (tức cửa Ba Lạt, xã Nam Phú, huyện Tiền Hải nay) đều là những điểm trọng yếu… Tại cửa Thái Bình, nơi hội tụ của nhiều nhánh sông thuộc hệ thống sông Thái Bình, nhà Trần cho lập các điểm phòng thủ chiến lược như Lưu Đồn, Bát Đụn Trang (thuộc các xã Thụy Hồng, Thụy Dũng, nay là xã Hồng Dũng, huyện Thái Thụy) ngoài nhiệm vụ trấn giữ, điểm phòng thủ này còn là nơi dự bị, sẵn sàng chi viện hoặc chặn đánh đường rút lui của giặc.


Quang Viện