Thứ 2, 29/04/2024, 20:57[GMT+7]

Bảo ngọc giữa làng

Thứ 2, 09/04/2018 | 08:52:29
1,828 lượt xem
Lịch sử nước ta ghi nhận Lý Bí (503 - 548) quê ở hương Thái Bình, phủ Long Hưng là người đầu tiên xưng Đế (Lý Nam Đế) lập nên triều tiền Lý, lập nên nhà nước Vạn Xuân và đặt niên hiệu Thiên Đức. Lý Bí còn có tên gọi khác là Lý Bôn

Miếu Hai Thôn, di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia thờ Lý Nam Đế và Đỗ Hoàng hậu đang xuống cấp nghiêm trọng.

Giới sử gia khẳng định trong thời Bắc thuộc và chống Bắc thuộc kéo dài hơn một nghìn năm, cuộc khởi nghĩa Lý Bí nói riêng, triều tiền Lý nói chung đã tạo khí thế chống giặc ngoại xâm bởi cuộc khởi nghĩa Lý Bí đã giành thắng lợi vang dội, giữ vững chủ quyền độc lập, tự chủ lâu dài nhất.

Ngọc phả của các làng Cự Lâm, Hữu Lộc (Xuân Hòa) và Hậu Tái, Bạch Đằng (Hiệp Hòa), huyện Vũ Thư đều khẳng định hương Màn Để là quê hương Đỗ Hoàng hậu (vợ vua Lý Nam Đế). 

Tương truyền, trong một lần hành quân qua hương Màn Để để đến đất Tây Trang (nay là thôn Hữu Lộc, xã Xuân Hòa) Lý Bí nhìn thấy khu đất có thế long chầu, hổ phục, nhân dân nơi đây no đủ, phong tục thuần hậu liền hạ lệnh cho binh lính dựng trại lưu quân. Nhận thấy đây là vùng đất an lành Lý Bí liền truyền lệnh binh sĩ cùng nhân dân hương Màn Để đắp đồn lũy, xây dựng hành cung chuẩn bị cho những cuộc chiến lâu dài chống quân xâm lược phương Bắc. Trong khi xây đồn đắp lũy, Lý Bí bỗng nhìn thấy trang thục nữ ở khu Tây Để, hỏi ra mới biết đó là Đỗ thị con gái cụ Đỗ Công Cẩn, một trang hào kiệt ở địa phương, có đủ công, dung, ngôn, hạnh liền rước vào làm đệ nhất phu nhân. Sắc đẹp “nghiêng nước, nghiêng thành” và đức độ có thừa của Đỗ thị khiến Lý Bí vô cùng sủng ái đệ nhất phu nhân. Sau khi xây dựng xong đồn lũy và hành cung tại hương Màn Để, mọi việc yên hàn, Lý Bí nhường quyền chỉ huy đồn lũy ở hương Màn Để cho Đỗ phu nhân rồi dẫn đại quân lên đường tiếp tục chiêu binh mộ tướng, mở rộng căn cứ chống giặc phương Bắc.

Ngược dòng thời gian, mùa đông năm 541, sau thời gian làm quan Giám quân ở Đức Châu (huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh ngày nay) dưới thời nhà Lương đô hộ, không chịu được cảnh áp bức, bóc lột và âm mưu đồng hóa của nhà Lương, Lý Bí đã liên kết với hào kiệt các châu lân cận khởi binh chống nhà Lương. Dưới sự lãnh đạo của Lý Bí, nghĩa quân nhanh chóng kiểm soát toàn bộ Giao Châu, Bắc Trung Bộ, quận Hợp Phố (Quảng Đông, Trung Quốc nay). Mùa xuân năm Nhâm Tý (542) Lý Bí xuống lệnh cho quân sĩ về hương Màn Để hội quân, khao quân rồi xuất quân đi đánh Châu Thanh. Theo các nguồn khảo luận, đại quân thủy bộ của Lý Bí đi tới đâu cờ xí rợp trời, binh khí chói trời, chiêng trống lay động chín tầng mây, ngựa thuyền trùng trùng điệp điệp. Dẹp giặc ở Châu Thanh xong, đại quân của Lý Bí tiến về thủ phủ Giao Châu (thành Luy Lâu thuộc tỉnh Bắc Ninh ngày nay), chỉ trong một trận mà tướng giặc Lương là Lâm Vũ Hầu bạt vía kinh hồn phải vứt áo mũ trà trộn trong đám lính bại trận tháo chạy về phương Bắc. Mùa xuân năm Giáp Tý (544), sau khi đánh bại hoàn toàn quân Lương, Lý Bí xưng Đế, lên ngôi vua, đặt niên hiệu là Thiên Đức, lập trăm quan, đặt tên nước là Vạn Xuân, đóng đô ở Ô Diên (nay là xã Hạ Mỗ, Đan Phượng, Hà Nội), dựng điện Vạn Thọ làm nơi triều hội, thành lập triều đình với hai ban văn, võ. Lấy Triệu Túc làm thái phó, Tinh Thiều đứng đầu ban văn, Phạm Tu đứng đầu ban võ. Tân phong Đỗ thị phu nhân làm Hoàng hậu, lấy đất Tây Để (làng Hữu Lộc, xã Xuân Hòa ngày nay) để phụng dưỡng quốc trượng Đỗ Công Cần, lấy đất Thần Hậu (nay thuộc xã Bạch Đằng, huyện Đông Hưng) làm thái ấp Hoàng hậu. Vua cũng trọng thưởng cho nhân dân hương Màn Để rất hậu, ban tặng bạc vàng, thóc gạo, lụa là, châu báu cho các bô lão, miễn sưu thuế cho dân.

Quân Lương sau những thất bại nặng nề dã tâm quay lại đánh tan nước Vạn Xuân. Chúng tập hợp binh tài tướng giỏi, mộ quân khắp vùng, đến đầu năm Ất Sửu (545), nhà Lương dồn sức đem quân tấn công Vạn Xuân nhằm chiếm lại Giao Châu. Lý Nam Đế đem quân đánh chặn ở Lục Đầu nhưng thế trận không cân sức. Quân Lý Bí hạ trại ở vùng trũng, đêm ấy trời mưa to, nước dâng cao, doanh trại quân của Lý Bí ngập trong biển nước, không kịp rút, giặc Lương thừa thế xông vào đánh chiếm, Lý Nam Đế đành rút quân lên động Khuất Lão (thuộc tỉnh Phú Thọ nay) bảo toàn lực lượng, tiếp tục chống giặc. Quân Lương thừa thế liên tiếp tấn công, vây hãm. Lý Nam Đế ở trong động lâu ngày nhiễm chướng khí, sinh bệnh, hai năm sau vua băng hà vào ngày 20 tháng 3 năm Mậu Thìn (548). Biết tin Lý Nam Đế băng hà, Đỗ Hoàng hậu khóc lóc thảm thiết, đem đội hương binh lên động Khuất Lão làm lễ an táng nhà vua, sai quân lính xây dựng sơn lăng trên Liên Hoa Phong (đồi Hoa Sen) thuộc làng Cổ Tiết, huyện Tam Nông, tỉnh Phú Thọ nay. Xót thương đức vua vô hạn, Đỗ Hoàng hậu cũng lâm bệnh, lui về An Để, bà mất cùng năm với nhà vua.

Nhân dân các làng Sòi, Bản, Hương, Hậu Lộc, Cự Lâm (xã Xuân Hòa nay), An Để, xã Hiệp Hòa, Thượng Hộ, xã Hồng Lý, (huyện Vũ Thư), Kim Bôi, xã Hoa Lư, An Lễ, Thọ Vực, xã Hoa Nam, Thần Hậu, xã Bạch Đằng (huyện Đông Hưng) đều lập đền thờ vua tiền Lý. Đặc biệt, miếu Hai Thôn, trung tâm của hương Màn Để xưa, nay nằm giữa hai thôn An Để, xã Hiệp Hòa và thôn Phương Tảo, xã Xuân Hòa, huyện Vũ Thư do nhân dân hảo tâm xây dựng trở thành chính từ. Đền Hữu Lộc, nơi sinh Đỗ Hoàng hậu cũng được coi là chính từ, các đền phụ cận đều được coi là vọng từ vì có công khuông phù Lý Nam Đế từ buổi đầu dựng quân, tụ nghĩa chống giặc Lương. 14 thế kỷ đã trôi qua, miếu Hai Thôn là bảo ngọc lung linh giữa làng quê hiện hữu cùng thời gian, nghe đâu đây giọng thơ trầm hùng của hào kiệt Lý Bí thuở nào khi lưu quân tại mảnh đất này và đề thơ:


“Thành thị lâu đài giai bảo ngọc
Giang sơn, hoa thảo thống đan thanh
Dư khí trung thành tuy tiểu mạch
Mạc cư chầu khả kiến cung thành”.

Dịch là:

“Thành thị lâu đài xinh tựa ngọc
Núi sông, hoa cỏ ngát màu xanh
Thừa khí trung thành tuy đất hẹp
Nơi đây có thể dựng cung thành”.

                                (Lý Nam Đế)


Lý Bí tự xưng Hoàng đế, đặt tên nước là Vạn Xuân, định niên hiệu, lập một triều đình ngang hàng với nước lớn phương Bắc là sự khẳng định chủ quyền độc lập dân tộc, sự bền vững muôn đời của đất trời Việt Nam ta.



Nhà nghiên cứu văn hóa dân gian Nguyễn Thanh, nguyên Giám đốc Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch

Quê hương của Lý Bí ở đâu vẫn còn là tồn dư nhưng có thể khẳng định chắc chắn rằng Thái Bình là đất tụ nghĩa, khuông phù Lý Bí đánh tan giặc Lương, lập nên nhà nước Vạn Xuân. Hương Màn Để (nay là hai xã Xuân Hòa, Hiệp Hòa, huyện Vũ Thư) chính là quê hương của Đỗ Hoàng hậu và quốc trượng phụ Đỗ Công Cần. Dựa vào thế đất nhân khang, vật thịnh này mà Lý Bí tuyển mộ đủ quân đánh thắng giặc phương Bắc, xưng đế vương, lập nên triều tiền Lý.

Ông Nguyễn Quang Thu, Chủ tịch UBND xã Xuân Hòa (Vũ Thư)

Miếu Hai Thôn thuộc địa bàn xã Xuân Hòa là di tích cổ cần được bảo vệ, tôn tạo. Miếu từng được đại tu vào thời Lê Trung hưng, niên hiệu Chính Hòa (1680), là một công trình kiến trúc thời Lê đẹp của địa phương. Năm Thành Thái thứ 2 thời nhà Nguyễn (1890), nhân dân đóng góp công sức, tiền của mở rộng thêm 5 gian tòa bái đường khá đẹp, đưa kiến trúc của miếu từ kiểu chữ Nhị thành kiểu chữ Tam. Miếu Hai Thôn đã được công nhận là di tích lịch sử cấp quốc gia, hiện đang xuống cấp nghiêm trọng.

Ông Lê Văn Đang, thôn An Để, xã Hiệp Hòa (Vũ Thư)

Xưa kia An Để và Phương Tảo là hai thôn của xã Hiệp Hòa. Sau hòa bình lập lại năm 1954, thôn Phương Tảo được tách ra và nhập vào xã Xuân Hòa. Miếu Hai Thôn thuộc về xã Xuân Hòa quản lý nhưng đến kỳ lễ hội mùng 10 tháng 2 thì kiệu lễ của An Để được rước về miếu, dân làng An Để vẫn về miếu dự hội và vẫn coi miếu là linh hồn của làng An Để.

Ông Nguyễn Minh Lương, đoàn trưởng đoàn tế nam quan, xã Hiệp Hòa (Vũ Thư)

Tưởng nhớ công lao dựng nước Vạn Xuân của Lý Nam Đế và Đỗ Hoàng hậu, nhân dân hương Màn Để xưa, nay là hai xã Xuân Hòa, Hiệp Hòa cùng nhân dân các xã lân cận vẫn gìn giữ, bảo vệ ngôi miếu cổ, hàng năm mở hội có tế nam quan, nữ quan, có nhiều trò chơi dân gian, biểu diễn võ, vật để hồi cố một thuở chiêu binh, mộ tướng của vua tiền Lý trên mảnh đất của hương Màn Để.


Quang Viện

  • Từ khóa